This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Hai, 25 tháng 9, 2017

Bến Tre tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao

HKM FARM | http://hmkfarm.com/
KTNT - Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hữu Lập: Để nông nghiệp Bến Tre phát triển mạnh, bền vững trong thời gian tới nhất thiết phải có hướng phát triển phù hợp, nhất là phải tổ chức lại sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại hơn vào sản xuất. 
Bến Tre: Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hữu Lập, giá trị tăng thêm ngành Nông nghiệp hiện nay chiếm hơn 44% tổng giá trị sản phẩm của tỉnh và đang được phát triển theo hướng thâm canh, chuyên canh, quy mô lớn trên cơ sở liên kết giữa những người nông dân thông qua tổ hợp tác, hợp tác xã và bước đầu có sự liên kết, hợp tác giữa sản xuất - tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi đối với một số cây trồng, vật nuôi và thủy sản có giá trị như: Dừa, bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn, cây giống - hoa kiểng, bò, tôm biển, heo. Nhiều mô hình sản xuất an toàn (GAP), phương thức sản xuất mới, ứng dụng khoa học công nghệ ngày càng tăng tại Bến Tre từ đó tạo ra sản lượng hàng hóa lớn có chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu.
Bến Tre tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Tuy nhiên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho rằng nền nông nghiệp của Bến Tre còn nhiều khó khăn, thách thức nhất là sản xuất manh mún, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, các hình thức sản xuất hiện đại nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao hơn trên diện tích đất nông nghiệp chưa nhiều. Vì vậy để ngành Nông nghiệp tỉnh nhà phát triển mạnh, bền vững trong thời gian tới nhất thiết phải có hướng phát triển phù hợp, nhất là phải tổ chức lại sản xuất, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại hơn vào sản xuất. Các chuyên gia cũng đưa ra nhiều giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong tỉnh Bên Tre.
Xây chuỗi giá trị nông sản
Xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp gắn sản xuất với tiêu thụ theo chuỗi giá trị nông sản và có khả năng nhân rộng trên các lĩnh vực lúa gạo, trái cây và thủy sản là hướng phát triển của tỉnh Bến Tre.
Theo Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre, giai đoạn 2017-2018, tỉnh tổ chức hướng dẫn các hợp tác xã được chọn xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh khả thi. Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp gắn kết với các hợp tác xã để xây dựng mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Giai đoạn 2019-2020, tỉnh sẽ hoàn thiện mô hình thí điểm đối với các hợp tác xã nông nghiệp được chọn và triển khai nhận rộng các mô hình ở các địa phương.
Cũng theo Sở NN&PTNT Bến Tre, hiện tỉnh đang xây dựng chuỗi giá trị trên 8 sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh là dừa, bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn, hoa kiểng, con bò, con lợn và con tôm biển. Bước đầu, tỉnh đã hình thành những vùng nguyên liệu đáp ứng được các tiêu chuẩn của doanh nghiệp.
Việc hình thành các tổ hợp tác, hợp tác xã và liên kết sản xuất mang nhiều lợi ích thiết thực như giúp người dân giảm chi phí sản xuất, kinh doanh. Qua đó, gia tăng lợi nhuận cho từng thành viên, đảm bảo được chất lượng và số lượng hàng hóa cung ứng cho khách hàng. Đặc biệt có thể ký hợp đồng đầu ra, sản xuất quy mô lớn từ đó tạo tiền đề phát triển sản xuất, kinh doanh bền vững.
Tiền Giang: Trồng dừa Mã Lai đem lại thu nhập cao cho nông dân 
Hiện nay, mô hình trồng dừa dùng làm nước giải khát đang được nông dân huyện Gò Công Tây áp dụng bởi hiệu quả kinh tế cao, ít tốn công chăm sóc. Trong đó, loại dừa uống nước Mã Lai được nhiều người dân lựa chọn, do loại dừa này ít bị bọ cánh cứng, đuông gây hại, vỏ mỏng, gáo to, nước ngọt thơm, thân nhỏ, có thể trồng trên diện tích hẹp.
Sau 3 năm trồng, dừa Mã Lai bắt đầu cho trái, nếu được chăm sóc tốt, dừa đạt sản lượng mỗi 1 công đất (1.000m2) cho thu hoạch khoảng từ 400 - 500 trái/tháng, với giá dao động từ 70.000 - 80.000 đồng/chục (12 trái) như hiện nay, mỗi tháng người trồng dừa có thu nhập hơn 3 triệu đồng.
Trồng dừa Mã Lai đem lại thu nhập cao cho nông dân 
Đối với giống dừa Mã Lai, khâu chăm sóc có một số khác biệt so với các loại dừa khác. Khi cây có trái "chiến" (đợt trái đầu tiên) đến 5 - 7 năm sau, phải dùng tre hoặc tràm chống đỡ các buồng dừa để tránh tình trạng buồng bị gãy giữa chừng. Bên cạnh đó, để giúp buồng dừa bám chặt vào thân cây, không nên làm vệ sinh đọt dừa bởi các yếm dừa sẽ giữ buồng chắc chắn hơn.
Nhiều nhà vườn trồng dừa Mã Lai chia sẻ, nếu dừa ở mức giá 50.000 đồng/chục, người trồng dừa vẫn có nguồn thu nhập cao gấp 2 - 3 lần trồng lúa, hoặc màu, lại ít tốn công chăm sóc. Hơn nữa khi trồng dừa, nông dân có thể trồng xen các loại cây màu ngắn ngày để tăng thêm thu nhập theo hình thức lấy ngắn nuôi dài. Đây là một trong những mô hình chuyển đổi giống cây trồng vật nuôi ở địa phương khá hiệu quả, phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu, cần được nhân rộng.

Theo bao kinhtenongthong.com.vn

Trồng lúa công nghệ cao

HKM FARM | http://hmkfarm.com/

Xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu… đang là hướng đi mà ngành nông nghiệp Long An hướng tới.
Lúa là cây trồng chủ lực tại các huyện Đồng Tháp Mười của Long An, các địa phương và người dân ở đây luôn chú trọng sản xuất lúa theo hướng nâng cao giá trị thương mại, tạo lợi thế khi đưa ra thị trường.
Để lúa hàng hóa đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu thị trường, các địa phương vận động người dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Như huyện Tân Hưng xây dựng kế hoạch đến năm 2020 có 4.500ha lúa ứng dụng công nghệ cao.
Để thực hiện đều đó, ngoài việc tuyên truyền, huyện còn phối hợp với ngành nông nghiệp trình diễn các mô hình để người dân thấy được hiệu quả từ ứng dụng công nghệ cao và tin tưởng. Hợp tác xã (HTX) Gò Gòn ở xã Hưng Thạnh là một minh chứng.
Anh Ngưu, một xã viên phấn khởi cho biết: “Khi tham gia chương trình sản xuất lúa ứng dụng công nghệ cao, tuy chi phí ban đầu có cao hơn, nhưng bù lại, giá lúa làm theo quy trình này bán được giá, cho nên lãi nhiều hơn trước”.
Cũng theo anh Ngưu, cái được nhất không chỉ là lợi nhuận tăng mà gia đình còn được hỗ trợ về kỹ thuật, giống, thu hoạch lúa…
Năm 2013, HTX Gò Gòn bắt tay thực hiện mô hình cánh đồng lớn theo liên kết “4 nhà”, sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng, tạo thương hiệu cho sản phẩm.
HTX khuyến khích các xã viên ứng dụng công nghệ trong sản xuất, như cày xới san phẳng mặt ruộng bằng tia laser, áp dụng quy trình “1 phải 6 giảm”… nên tiết kiệm được chi phí, phân bón, giống. Mô hình trình diễn được đánh giá đạt hiệu quả cao.
Đặc biệt, nông dân tham gia mô hình đã thay đổi thói quen, tập tục làm lúa trước đây, hướng tới sản xuất chuyên nghiệp, khoa học hơn. Ông Hoàng Văn Sinh, Quyền Chủ tịch UBND huyện Tân Hưng, cho biết: Lợi nhuận thu được của những hộ dân tham gia mô hình từ HTX Gò Gòn, cao hơn so với các hộ bên ngoài. Huyện tiếp tục nhân rộng mô hình gắn với liên kết “4 nhà”, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất để tăng lợi nhuận cho người dân, tạo thương hiệu lúa của địa phương.
Giám đốc Sở NN-PTNT Long An Lê Văn Hoàng cho biết: Để nâng cao chuỗi giá trị hàng nông sản, tỉnh Long An đã xây dựng “Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp”.
Mục tiêu là giúp nhà nông giảm giá thành sản xuất, tăng năng suất, tăng thu nhập, phát triển ổn định và thân thiện với môi trường. Ngoài các mô hình ứng dụng công nghệ cao ở vùng Đồng Tháp Mười, hiện tại tỉnh còn một số mô hình ở huyện Cần Giuộc, Cần Đước…
Theo ông Lê Văn Hoàng, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất là giải pháp ưu việt, tạo hướng đi mới trước tình hình nông nghiệp có nhiều biến động như hiện nay. Để thực hiện được mục tiêu, địa phương sẽ triển khai thực hiện công tác quy hoạch, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, tổ chức lại sản xuất; đảm bảo lộ trình đầu tư, quy trình sản xuất và đẩy mạnh liên kết sản xuất - tiêu thụ theo chuỗi giá trị.
Theo báo sggp.org.vn

Thúc đẩy phát triển “nông nghiệp 4.0”


HKM FARM | http://hmkfarm.com/
Giai đoạn vừa qua, nông nghiệp Việt Nam có những bước tiến mạnh mẽ. Giá trị sản xuất, giá trị gia tăng phát triển liên tục trong một thời gian dài. Sản lượng hàng hóa ngày càng nâng cao, xuất khẩu tăng trưởng, thu nhập, đời sống của dân cư nông thôn được cải thiện.
Sự tăng trưởng nông nghiệp trong thời gian qua chủ yếu theo bề rộng thông qua tăng diện tích, tăng vụ và dựa trên các yếu tố đầu vào truyền thống cho sản xuất (lao động, vốn, vật tư) và nguồn lực tự nhiên. Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào sức lao động, tài nguyên thiên nhiên và hóa chất. Cơ cấu, năng suất và tăng trưởng của nông nghiệp đã tới hạn do chủ yếu dựa vào mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Vì vậy, khi thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phải đẩy nhanh đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Việc ứng dụng sâu khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, phân phối được coi là giải pháp đột phá để đưa nền nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại, bền vững, nông nghiệp sạch, thông minh, sản xuất hiệu quả theo nhu cầu thị trường.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (công nghiệp 4.0) với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa, vật lý, sinh học với sự đột phá trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Tại các nước phát triển, thành tựu đạt được thông qua công nghiệp 4.0 mang lại giá trị to lớn cho ngành nông nghiệp, góp phần tăng năng suất, sức cạnh tranh sản phẩm nông sản, giải phóng đáng kể lao động truyền thống của người nông dân.
Làn sóng đổi mới công nghệ tốc độ cao song hành với hội nhập và tự do hóa thương mại toàn cầu đang tạo sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong bối cảnh chung ấy, nếu không thay đổi mạnh mẽ về khoa học, công nghệ, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, tác động tiêu cực như tụt hậu về công nghệ, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, suy giảm sản xuất, kinh doanh... Sản phẩm tạo ra sẽ không thể cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới.
Hiện nay, tại nhiều địa phương, chủ trương áp dụng công nghệ cao để phát triển nông nghiệp được áp dụng và thu được kết quả đáng khích lệ. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30/NQ-CP khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch. Mới đây, Chính phủ chỉ đạo về việc triển khai thí điểm cơ chế tập trung, tích tụ đất đai, phục vụ thu hút đầu tư sản xuất nông nghiệp tập trung tại tỉnh Thái Bình và Hà Nam. Đây là hai trong số các địa phương có thành tích đáng ghi nhận về ứng dụng công nghệ cao trong phát triển nông nghiệp.
Để khuyến khích, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách ưu đãi tín dụng, cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch với lãi suất thấp hơn từ 0,5%/năm đến 1,5%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường cùng kỳ hạn của ngân hàng thương mại… Đứng trước đòi hỏi của thực tiễn phát triển, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có chỉ thị tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Qua đó, xác định các công nghệ mà ngành nông nghiệp cần ưu tiên phát triển trong từng giai đoạn để đón đầu xu hướng công nghệ mới trên thế giới.
Muốn tiếp cận nhanh với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành nông nghiệp cần kiên quyết triển khai Chính phủ điện tử để giảm chi phí, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Phải chủ động rà soát, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp; sửa đổi những điều kiện quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu theo hướng giảm thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, bảo đảm minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính. Đồng thời, tăng cường hội nhập quốc tế, nắm bắt cơ hội vượt qua thách thức để phát triển nông nghiệp bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển với các quốc gia, tạo điều kiện cho mọi người dân được tiếp cận bình đẳng và hưởng lợi từ thành quả của cách mạng công nghiệp.
Theo bao nhandan.com.vn

Xây dựng nông thôn mới trên “đất thép”

HKM FARM | http://hmkfarm.com/
Đến nay, Vĩnh Linh tiếp tục là huyện dẫn đầu trong xây dựng NTM ở Quảng Trị khi đã có 11/19 xã đạt chuẩn. Lãnh đạo và nhân dân Vĩnh Linh đang quyết tâm đồng lòng, đồng sức phấn đấu đưa huyện trở thành huyện NTM đầu tiên trên “mảnh đất thép” anh hùng.
Niềm vui trên những con đường mới
Những ngày này, người dân xã Vĩnh Sơn rất phấn khởi khi địa phương được đầu tư nhiều công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Bà Nguyễn Thị Vân, trú thôn Phan Hiền, xã Vĩnh Sơn chia sẻ: “Từ khi triển khai xây dựng NTM, bà con thôn Phan Hiền đã đóng góp tiền của, vật chất vào xây dựng các công trình phúc lợi, tích cực tham gia ngày công, hiến đất làm đường. Con, em trong thôn không phải chịu cảnh đi học áo trắng về nhà áo đỏ vì bụi đường như trước”.
 xay dung nong thon moi tren “dat thep” hinh anh 1
Người dân Vĩnh Linh chung sức xây dựng hệ thống kênh mương nội đồng, phục vụ sản xuất. Ảnh: N.V
Vĩnh Sơn chỉ là một nét vẽ nhỏ trong bức tranh xây dựng NTM của huyện Vĩnh Linh. Có được kết quả đáng khích lệ đó là nhờ công tác tuyên truyền, vận động được thực hiện đa dạng, nhiều hình thức, gắn với các hoạt động thực tiễn. Trong đó, nổi bật và ấn tượng nhất phải kể đến phong trào “Chung sức trợ giúp xóa đói giảm nghèo 11 thôn bản đặc biệt khó khăn” của huyện, với sự tham gia đông đảo cán bộ, công nhân viên chức của gần 100 phòng ban, đoàn thể, địa phương, doanh nghiệp đóng trên địa bàn. Từ phong trào này, các đầu mối đã nhận đỡ đầu, hỗ trợ 11 bản nghèo của 3 xã miền núi Vĩnh Ô, Vĩnh Khê và Vĩnh Hà vượt qua khó khăn, phấn đấu xây dựng NTM thành công.
Nhiều mô hình nâng cao thu nhập
Những năm gần đây, nhờ tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa nhiều loại cây - con chủ lực vào sản xuất nên cho hàng trăm hộ gia đình ở Vĩnh Linh đã vươn lên thoát nghèo và có thu nhập ổn định. Đặc biệt, cây tiêu tại đây đang được người dân dầu tư phát triển mạnh theo hướng hiện đại, bền vững. Tiêu biểu như gia đình ông Nguyễn Đức Phương ở thôn Hương Bắc, xã Vĩnh Kim đã đầu tư hệ thống tưới nước nhỏ giọt cho vườn hồ tiêu của mình và đạt kết quả tốt. Ông Phương cho biết, việc sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt giúp cây trồng tận dụng triệt để nguồn dinh dưỡng trong đất, nâng cao hiệu quả bón phân cho cây tiêu lên từ 30 - 40%. Hiện nay, mô hình tưới nước nhỏ giọt cho tiêu đã được người dân Vĩnh Linh áp dụng trên 1.274ha hồ tiêu.
Một mô hình cũng đang được nhân rộng là trồng ném (còn gọi là hành tăm) trên lưới xangtylen. So với hình thức trồng ném truyền thống, phương pháp này cho năng suất cao hơn khoảng 2 tấn/ha, nhờ đó thu nhập của người dân tăng lên đáng kể.
Vĩnh Linh cũng đang triển khai xây dựng mô hình “Sản xuất rau sạch ứng dụng công nghệ cao” ở xã Vĩnh Tú với 2 loại cây mướp đắng và dưa lê ở trong nhà kín; vườn tiêu mẫu công nghệ cao. Huyện còn triển khai dự án trồng vùng nguyên liệu dứa với diện tích 26ha nhằm tìm hướng đi cho vùng cát ven biển.
Ông Trần Hữu Hùng - Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Linh cho biết: Thời gian tới, huyện tập trung xây dựng NTM gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó chú trọng phát triển theo hướng nông sản sạch. Huyện chủ động đầu tư cơ sở hạ tầng về điện, đường ra tận cánh đồng sản xuất của nông dân; thành lập HTX để liên kết sản xuất, tiêu thụ; chú trọng xây dựng thương hiệu cho nông sản địa phương như dưa Vĩnh Tú, tiêu Vĩnh Linh, ném Vĩnh Kim…


Theo báo Danviet.vn

Chủ Nhật, 24 tháng 9, 2017

Hàn Quốc thí nghiệm các chế phẩm sinh học trên lúa tại Hậu Giang

HKM FARM | http://hmkfarm.com/
Ngày 23/9, UBND tỉnh Hậu Giang làm việc với doanh nghiệp Hàn Quốc về hợp tác thực hiện thí nghiệm các chế phẩm sinh học của Hàn Quốc trên cây lúa tại Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang.

Hàn Quốc thí nghiệm các chế phẩm sinh học trên lúa tại Hậu Giang. Ảnh mang tính chất minh họa: Lê Đức Hoảnh-TTXVN

Tại buổi làm việc, ông Trương Cảnh Tuyên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã thông tin đến đoàn doanh nghiệp Hàn Quốc về điều kiện tự nhiên, dân cư, nguồn nhân lực và các chính sách ưu đãi đầu tư của tỉnh.
Ông Nguyễn Cảnh Tuyên cũng cho biết, trên địa bàn tỉnh có 29 doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư vào tỉnh Hậu Giang nhưng chưa có doanh nghiệp nào của Hàn Quốc.
Do đó, tỉnh Hậu Giang mong muốn các doanh nghiệp Hàn Quốc tìm hiểu và đầu tư vào tỉnh Hậu Giang.
"Hiện nay, Khu thực nghiệm, trình diễn - Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang đã thử nghiệm các chế phẩm sinh học của Hàn Quốc và sẽ thử nghiệm tiếp cho vụ lúa sau.", ông Tuyên cho biết thêm.
Tiến sĩ Lee Sang Huyk, Quỹ chuyển giao và thương mại công nghệ nông nghiệp Hàn Quốc bày tỏ mong muốn chuyển giao các tiến bộ khoa học của Hàn Quốc cho tỉnh Hậu Giang và cho biết, hiện nay, diện tích khu thí nghiệm chế phẩm sinh học còn khá nhỏ.
Do đó, phía Hàn Quốc hy vọng được mở rộng diện tích thí nghiệm chế phẩm sinh học và hợp tác nhiều lĩnh vực hơn với tỉnh Hậu Giang.

Việc thực hiện thí nghiệm các chế phẩm sinh học của Hàn Quốc trên cây lúa tại Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang được thực hiện theo công văn số 1469/UBND-KT ngày 17/8/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang.
Theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang thống nhất chủ trương cho Ban Quản lý Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang phối hợp với Tổ chức chuyển giao công nghệ và thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp của Hàn Quốc (FACT) thực hiện thí nghiệm các chế phẩm sinh học của Hàn Quốc trên cây lúa tại Khu thực nghiệm, trình diễn - Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang.
Đến nay, Ban Quản lý Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang đã khảo sát địa điểm, hộ nông dân tham gia; tiếp nhận 14 chế phẩm, thiết bị công nghệ từ FACT và xây dựng kế hoạch triển khai dự án; gửi nông dân tham gia mô hình dự học lớp kỹ thuật trồng lúa.
Hiện nay có 12/14 chế phẩm và thiết bị công nghệ của FACT được phân bổ cho 13 hộ dân tại ấp 11, xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ (thuộc Khu Thực nghiệm - trình diễn, Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang) với diện tích 12,85ha trong vụ Thu Đông 2017.
Trong thời gian tới, tỉnh Hậu Giang sẽ tiếp tục trao đổi thông tin với FACT nhằm nâng cao hiệu quả dự án.
Đồng thời, tỉnh sẽ thảo luận về xây dựng dự án lúa sử dụng hoàn toàn các chế phẩm sinh học từ Hàn Quốc với diện tích từ 10 - 20ha.

Làm giàu trên đồng đất quê hương

HKM FARM | http://hmkfarm.com/
Trước kia, phần lớn người dân ở xã Sơn Công (huyện Ứng Hòa) sống bằng nghề nông với thu nhập thấp, bấp bênh. Có thời điểm, nam giới đi làm xa, địa phương chỉ còn phụ nữ, trẻ em và người già. Những năm gần đây, nhờ việc áp dụng một số mô hình nông nghiệp mới nên nhiều lao động trẻ không phải "ly hương" để mưu sinh mà làm giàu ngay trên đồng đất quê mình.


Người dân ở Sơn Công làm giàu từ sản xuất nông nghiệp.

Chia sẻ với chúng tôi, Bí thư Đảng ủy xã Sơn Công Vũ Văn Thanh cho biết, xã có 4 thôn với 7.500 nhân khẩu. Với hơn 300ha đất nông nghiệp, trong đó hơn 100ha đất bãi ven sông Đáy màu mỡ nhưng nông dân chỉ trồng ngô, khoai 2 vụ/năm, thu nhập thấp; sản xuất lúa manh mún, khó áp dụng cơ giới hóa, chi phí cao lại rất vất vả. Trước đây, chỉ có người già, phụ nữ và trẻ em ở nhà lo việc đồng áng, chăm sóc gia đình... còn đa số thanh niên, nam giới kiếm việc làm ở khắp nơi. Ngoài số ít có việc làm ổn định, còn lại, nhiều người phải nay đây, mai đó với đủ nghề như: Bán hàng rong, giúp việc, công nhân tại các xưởng sản xuất…

Hiểu rõ hạn chế và cần sự thay đổi mạnh mẽ để phát triển kinh tế địa phương, Sơn Công đã học tập nhiều mô hình nông nghiệp giá trị cao. Từ đó, lãnh đạo xã động viên nhân dân cùng "bắt tay" thực hiện. Trong nông nghiệp, sau dồn điền đổi thửa thành công, một phần diện tích được đầu tư sản xuất rau an toàn, trong đó có mô hình nông nghiệp công nghệ cao được huyện, xã và các ngành hỗ trợ tới 70% chi phí. Điển hình là mô hình nông nghiệp công nghệ cao với nhà kính, nhà lưới, hệ thống tưới tự động quy mô 5.000m2 tại thôn Vĩnh Thượng. Theo đà, vùng đất bãi cũng "chuyển mình", nông dân tập trung trồng cây ăn quả: Ổi, bưởi, táo...

Hồ hởi chia sẻ niềm vui, anh Nguyễn Xuân Nghĩa - Chủ tịch HĐQT HTX Dịch vụ nông nghiệp Vĩnh Thượng cho biết, giờ ở Vĩnh Thượng không thiếu nông dân tỉ phú, thay vì canh tác đơn giản như trước đây, "đội ngũ" lao động trẻ, khỏe, có tri thức, mạnh dạn thuê thêm ruộng để đầu tư làm trang trại nông nghiệp, quy mô lớn (từ 2-10 mẫu/mô hình rau, củ, quả). Thay vì manh mún, họ tập trung đầu tư chuyên canh, sản lượng lớn và dùng ô tô tải chở sản phẩm đi bán ở các chợ (không gánh rong như trước). Để đáp ứng quy mô sản xuất lớn, các hộ đã cơ giới hóa sản xuất, đầu tư máy làm đất đa năng. Vì vậy, tuy làm "lớn" nhưng người lao động không vất vả như trước đây... Bên cạnh đó, chăn nuôi cũng được đầu tư bài bản theo mô hình trang trại, cho hiệu quả cao.

Không thể kể hết số thanh niên làm giàu từ nông nghiệp ở Sơn Công, bởi đến nay, toàn xã đã có hơn trăm hộ. Điển hình như gia đình các anh: Nguyễn Văn Tưởng, Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Thắng… đều có cơ ngơi khang trang giá trị bạc tỷ, có "của ăn, của để". Theo nhẩm tính của anh Ngô Văn Anh (thôn Vĩnh Thượng): Mỗi vụ dưa chuột anh có thể thu 1,2 đến 2 tấn/sào tùy giống và thời vụ, nếu trồng 2 đến 10 mẫu Bắc Bộ sẽ được vài chục tấn. Kết quả trên là nhờ việc áp dụng các biện pháp canh tác cải tiến như: Che phủ ni lông, tránh rửa trôi phân bón, tiết kiệm nước tưới, và đặc biệt, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trước thu hoạch 2 tháng...

Từ thực tế ấy, Bí thư Đảng ủy Sơn Công Vũ Văn Thanh tự tin khẳng định: Làm nông nghiệp ở xã Sơn Công nay đã khác xưa, vừa đỡ vất vả mà vẫn giàu. Bởi vậy, thanh niên của xã giờ đã gắn bó với đồng đất quê hương, không phải chật vật tìm việc với thu nhập "phập phù" nơi "đất khách". Họ đã tự chủ với công việc mới có giá trị cao... Cũng nhờ kinh tế phát triển, từ xã nghèo, nay Sơn Công đã có 13 tiêu chí nông thôn mới đạt và 3 tiêu chí cơ bản đạt; thu nhập bình quân 32 triệu đồng/người/năm. Tuy nhiên, vẫn còn đâu đó "cái khó" rất cần sự hỗ trợ của các cấp, các ngành chức năng về: Tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu, quảng bá... Ngoài ra, thiên tai, bão lũ… cũng là những yếu tố ngoại cảnh "thử thách" Sơn Công. Dù vậy, với tiềm năng "sức trẻ", nhiệt huyết, chắc chắn Sơn Công sẽ vượt qua để ngày càng phát triển.


Theo báo hanoimoi.com.vn

“Ngại” đầu tư vào nông nghiệp, vì sao?

HKM FARM | http://hmkfarm.com/

Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao là con đường ngắn nhất giúp thu hẹp khoảng cách về công nghệ và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp giữa Việt Nam và các nước tiên tiến trên thế giới.


Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (NNƯDCNC) đến năm 2020 quy định rõ: Đưa tỷ trọng giá trị sản xuất NNƯDCNC chiếm khoảng 35% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước; hình thành và phát triển khoảng 200 doanh nghiệp (DN) NNƯDCNC tại các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm...
Ông Từ Minh Thiện, Phó Trưởng ban BQL Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh cho biết, sản xuất ở các Khu nông nghiệp công nghệ cao đạt năng suất cao kỷ lục như: Tại Israel, năng suất cà chua đạt 500-600 tấn/ha, bưởi 150-200 tấn/ha, hoa cắt cành 3 triệu cành/ha. Năng suất bò sữa bình quân 115 ngàn lít/chu kỳ/con. Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đã tạo ra 1 giá trị sản lượng và thu nhập bình quân 180.000-200.000 USD/ha/năm. Trung Quốc đạt giá trị sản lượng và thu nhập bình quân 50-60.000 USD/ha/năm, tăng 50-60 lần so với các mô hình trước đó.
“Chính vì vậy sản xuất nông nghiệp theo hướng ƯDCNC và sự phát triển Khu Nông nghiệp ƯDCNC đã và đang trở thành mẫu hình cho nền nông nghiệp tri thức thế kỷ XXI”, ông Thiện nói.
 Trái cây Việt phong phú nhưng chưa xuất khẩu nhiều do giá trị chưa cao.
Trái cây Việt phong phú nhưng chưa xuất khẩu nhiều do giá trị chưa cao.
Hiện cả nước có 4.500 DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có đến 97,5% là DN nhỏ và vừa (DNNVV) tạo ra 45-50% khối lượng hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Thực tế cho thấy, DNNVV ngày càng tham gia sâu rộng vào qui trình phát triển kinh tế.
Cụ thể, năm 2011, DNNVV đóng góp 20% GDP thì đến 2014 con số này là 40% và 30% thu nộp Ngân sách, 30% kim ngạch xuất khẩu. DNNVV giải quyết được việc làm mới hàng năm cho 51% lực lượng lao động. Số lượng lao động ngành này tương đối cao, chiếm 47% tổng số lao động cả nước. Tuy nhiên năng suất lao động thấp, doanh thu bình quân 262 triệu đồng/lao động, chỉ bằng 1/5 so với các lĩnh vực khác (doanh thu bình quân 1 tỷ đồng/người), ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất còn thấp, tỷ lệ máy móc đạt trình độ cao còn khiêm tốn. Chính những rào cản này khiến các DN chưa mặn mà tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp.
Đã vậy, nếu quyết định đầu tư thì DN sẽ đối mặt tiếp với những khó khăn khác như: Không có quỹ đất lớn để sản xuất. Hợp tác với nông dân còn nhiều rủi ro vì tính tuân thủ hợp đồng còn yếu. Hệ thống cung cấp vốn cho DN chưa phát triển. Thị trường tiêu thụ nông sản còn bấp bênh. Tiếp cận các chính sách ưu đãi còn nhiều trở ngại...
Riêng tại TP Hồ Chí Minh, hiện có 14 DN đang đầu tư trong Khu NNCNC và 23 DN ươm tạo hiện đang hoạt động. Theo khảo sát tình hình hoạt động các DN này của Sở NN&PTNT TP Hồ Chí Minh, trong số 14 DN là nhà đầu tư trong khu NNCNC gồm nhiều lĩnh vực (sản xuất cây giống, hạt giống rau quả, nấm ăn, nấm dược liệu, chế phẩm sinh học, hoa lan và xử lý sau thu hoạch), chỉ có 10 DN đang hoạt động (chiếm 71%), còn 4 DN đang gặp khó khăn về nguồn vốn để triển khai các hạng mục dự án.
Trong hoạt động kết nối giữa Ngân hàng với DN những năm qua, có 6 lượt DN có nhu cầu vay vốn để phát triển và đầu tư cho sản xuất nhưng đều không đáp ứng được yêu cầu và điều kiện cho vay của Ngân hàng. Chỉ có 2 nhà đầu tư vay được từ nguồn vốn ưu đãi lãi suất (theo Quyết định 04 của thành phố) với tổng vốn vay hơn 8 tỷ đồng.
Còn hoạt động ươm tạo DN cũng đã triển khai từ năm 2009 thông qua Trung tâm ươm tạo DN NNCNC. Trung tâm tiếp nhận khoảng 820 cá nhân liên hệ trực tiếp để tìm hiểu về chính sách và điều kiện để tham gia nhưng chỉ 260 trường hợp muốn tham gia chương trình. Số liệu khảo sát cho thấy, tỷ lệ người quan tâm/tổng số người biết đến chương trình là 7,03%, tỷ lệ thu hút DN đầu vào/tổng số người tiếp cận thông tin về chương trình ươm tạo là 5,2%. Như vậy, mức độ quan tâm khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp còn thấp. Đây là một thử thách rất lớn đối với ngành nông nghiệp, đặc biệt NNƯDCNC.
Các chuyên gia cho rằng, để nâng cao giá trị và cơ hội tiêu thụ nông sản Việt Nam tại thị trường xuất khẩu thì ngành nông nghiệp trong nước phải tập trung xây dựng vùng nguyên liệu, áp dụng một số tiêu chuẩn sản xuất nông sản theo yêu cầu của các nước nhập khẩu như GlobalGAP, VietGAP, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và gia tăng hàm lượng chế biến nông sản. Ngoài ra, cần phải giải quyết vấn đề về môi trường và tính bền vững. Đây thường là yêu cầu của các nhà nhập khẩu và cũng là vấn đề được đề cập trong các thỏa thuận như Hiệp định thương mại tự do FTA.
Từ thực tế này, ông Từ Minh Thiện đã đưa ra ba nhóm giải pháp chính để phát triển DNVVN trong lĩnh vực nông nghiệp và NNƯDCNC. Thứ nhất, phải xóa bỏ rào cản trong môi trường kinh doanh (như khả năng tiếp cận thị trường, nguồn lực, thông tin và các chi phí không chính thức...).
Đây được xem là giải pháp tổng thể, liên tục, lâu dài để khuyến khích các DN khởi nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động của vườn ươm. Thứ 2, phải có cơ chế chính sách riêng cho từng nhóm đối tượng DN. Thứ 3, nâng cao hiệu quả cung ứng vốn, lưu ý tạo nguồn vốn đầu tư NNƯDCNC. Bởi vì theo khảo sát việc cho vay và đầu tư của các tổ chức tài chính cho thấy, các tổ chức này chỉ hỗ trợ vốn cho DN ở giai đoạn tăng trưởng, phát triển và thuần thục.
Giai đoạn ban đầu của DN thì rất khó khăn để thuyết phục các nhà đầu tư. Vì vậy, trong giai đoạn đầu, Nhà nước cần hỗ trợ DN thông qua các hình thức cho vay ưu đãi, hoặc tài trợ dưới hình thức các giải thưởng khoa học công nghệ. Sau đó, sẽ huy động thêm nguồn vốn từ các nhà đầu tư để hình thành nên một Quỹ đầu tư mạo hiểm.
Theo báo cafef.vn