HKM FARM
| http://hmkfarm.com/
Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao là con đường ngắn nhất giúp thu hẹp khoảng cách về công nghệ và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp giữa Việt Nam và các nước tiên tiến trên thế giới.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (NNƯDCNC) đến năm
2020 quy định rõ: Đưa tỷ trọng giá trị sản xuất NNƯDCNC chiếm khoảng 35% tổng
giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước; hình thành và phát triển khoảng 200
doanh nghiệp (DN) NNƯDCNC tại các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm...
Ông Từ Minh Thiện, Phó Trưởng ban BQL Khu Nông nghiệp
Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh cho biết, sản xuất ở các Khu nông nghiệp công nghệ
cao đạt năng suất cao kỷ lục như: Tại Israel, năng suất cà chua đạt 500-600
tấn/ha, bưởi 150-200 tấn/ha, hoa cắt cành 3 triệu cành/ha. Năng suất bò sữa bình
quân 115 ngàn lít/chu kỳ/con. Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đã tạo ra 1 giá
trị sản lượng và thu nhập bình quân 180.000-200.000 USD/ha/năm. Trung Quốc đạt
giá trị sản lượng và thu nhập bình quân 50-60.000 USD/ha/năm, tăng 50-60 lần so
với các mô hình trước đó.
“Chính vì vậy sản xuất nông nghiệp theo hướng ƯDCNC và sự
phát triển Khu Nông nghiệp ƯDCNC đã và đang trở thành mẫu hình cho nền nông
nghiệp tri thức thế kỷ XXI”, ông Thiện nói.

Trái cây Việt phong phú nhưng chưa xuất khẩu nhiều do giá
trị chưa cao.
Hiện cả nước có 4.500 DN hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp, trong đó có đến 97,5% là DN nhỏ và vừa (DNNVV) tạo ra 45-50% khối lượng
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Thực tế cho thấy, DNNVV ngày càng tham gia sâu
rộng vào qui trình phát triển kinh tế.
Cụ thể, năm 2011, DNNVV đóng góp 20% GDP thì đến 2014 con
số này là 40% và 30% thu nộp Ngân sách, 30% kim ngạch xuất khẩu. DNNVV giải
quyết được việc làm mới hàng năm cho 51% lực lượng lao động. Số lượng lao động
ngành này tương đối cao, chiếm 47% tổng số lao động cả nước. Tuy nhiên năng suất
lao động thấp, doanh thu bình quân 262 triệu đồng/lao động, chỉ bằng 1/5 so với
các lĩnh vực khác (doanh thu bình quân 1 tỷ đồng/người), ứng dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất còn thấp, tỷ lệ máy móc đạt trình độ cao còn khiêm tốn. Chính
những rào cản này khiến các DN chưa mặn mà tham gia vào lĩnh vực nông
nghiệp.
Đã vậy, nếu quyết định đầu tư thì DN sẽ đối mặt tiếp với
những khó khăn khác như: Không có quỹ đất lớn để sản xuất. Hợp tác với nông dân
còn nhiều rủi ro vì tính tuân thủ hợp đồng còn yếu. Hệ thống cung cấp vốn cho DN
chưa phát triển. Thị trường tiêu thụ nông sản còn bấp bênh. Tiếp cận các chính
sách ưu đãi còn nhiều trở ngại...
Riêng tại TP Hồ Chí Minh, hiện có 14 DN đang đầu tư trong
Khu NNCNC và 23 DN ươm tạo hiện đang hoạt động. Theo khảo sát tình hình hoạt
động các DN này của Sở NN&PTNT TP Hồ Chí Minh, trong số 14 DN là nhà đầu tư
trong khu NNCNC gồm nhiều lĩnh vực (sản xuất cây giống, hạt giống rau quả, nấm
ăn, nấm dược liệu, chế phẩm sinh học, hoa lan và xử lý sau thu hoạch), chỉ có 10
DN đang hoạt động (chiếm 71%), còn 4 DN đang gặp khó khăn về nguồn vốn để triển
khai các hạng mục dự án.
Trong hoạt động kết nối giữa Ngân hàng với DN những năm
qua, có 6 lượt DN có nhu cầu vay vốn để phát triển và đầu tư cho sản xuất nhưng
đều không đáp ứng được yêu cầu và điều kiện cho vay của Ngân hàng. Chỉ có 2 nhà
đầu tư vay được từ nguồn vốn ưu đãi lãi suất (theo Quyết định 04 của thành phố)
với tổng vốn vay hơn 8 tỷ đồng.
Còn hoạt động ươm tạo DN cũng đã triển khai từ năm 2009
thông qua Trung tâm ươm tạo DN NNCNC. Trung tâm tiếp nhận khoảng 820 cá nhân
liên hệ trực tiếp để tìm hiểu về chính sách và điều kiện để tham gia nhưng chỉ
260 trường hợp muốn tham gia chương trình. Số liệu khảo sát cho thấy, tỷ lệ
người quan tâm/tổng số người biết đến chương trình là 7,03%, tỷ lệ thu hút DN
đầu vào/tổng số người tiếp cận thông tin về chương trình ươm tạo là 5,2%. Như
vậy, mức độ quan tâm khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp còn thấp. Đây là một
thử thách rất lớn đối với ngành nông nghiệp, đặc biệt NNƯDCNC.
Các chuyên gia cho rằng, để nâng cao giá trị và cơ hội
tiêu thụ nông sản Việt Nam tại thị trường xuất khẩu thì ngành nông nghiệp trong
nước phải tập trung xây dựng vùng nguyên liệu, áp dụng một số tiêu chuẩn sản
xuất nông sản theo yêu cầu của các nước nhập khẩu như GlobalGAP, VietGAP, ứng
dụng công nghệ cao trong sản xuất và gia tăng hàm lượng chế biến nông sản. Ngoài
ra, cần phải giải quyết vấn đề về môi trường và tính bền vững. Đây thường là yêu
cầu của các nhà nhập khẩu và cũng là vấn đề được đề cập trong các thỏa thuận như
Hiệp định thương mại tự do FTA.
Từ thực tế này, ông Từ Minh Thiện đã đưa ra ba nhóm giải
pháp chính để phát triển DNVVN trong lĩnh vực nông nghiệp và NNƯDCNC. Thứ nhất,
phải xóa bỏ rào cản trong môi trường kinh doanh (như khả năng tiếp cận thị
trường, nguồn lực, thông tin và các chi phí không chính thức...).
Đây được xem là giải pháp tổng thể, liên tục, lâu dài để
khuyến khích các DN khởi nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động của vườn ươm.
Thứ 2, phải có cơ chế chính sách riêng cho từng nhóm đối tượng DN. Thứ 3, nâng
cao hiệu quả cung ứng vốn, lưu ý tạo nguồn vốn đầu tư NNƯDCNC. Bởi vì theo khảo
sát việc cho vay và đầu tư của các tổ chức tài chính cho thấy, các tổ chức này
chỉ hỗ trợ vốn cho DN ở giai đoạn tăng trưởng, phát triển và thuần
thục.
Giai đoạn ban đầu của DN thì rất khó khăn để thuyết phục
các nhà đầu tư. Vì vậy, trong giai đoạn đầu, Nhà nước cần hỗ trợ DN thông qua
các hình thức cho vay ưu đãi, hoặc tài trợ dưới hình thức các giải thưởng khoa
học công nghệ. Sau đó, sẽ huy động thêm nguồn vốn từ các nhà đầu tư để hình
thành nên một Quỹ đầu tư mạo hiểm.
Theo báo cafef.vn






0 nhận xét:
Đăng nhận xét